Người nuôi tôm còn xa doanh nghiệp

Với chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và việc triển khai nhiều giải pháp cụ thể của Bộ NN-PTNT, ngành tôm ĐBSCL đang có luồng sinh khí mới để vượt qua nhiều thách thức, phát triển nhanh

Một trong những thách thức phải vượt qua là khoảng cách còn quá lớn giữa người nuôi tôm với doanh nghiệp chế biến, như nghiên cứu của Trung tâm Hợp tác quốc tế Nuôi trồng và Khai thác Thủy sản bền vững (ICAFIS) cho biết sau đây. 

Từ khoảng cách lớn

Theo ông Đinh Xuân Lập, phó giám đốc của ICAFIS, nghiên cứu mới đây cho thấy, còn có đến 79,8% nguyên liệu của công ty chế biến phải mua từ các hộ nuôi nhỏ lẻ và thương lái địa phương. Tuy nhiên, việc xây dựng, duy trì các liên kết giữa doanh nghiệp chế biến với vùng nguyên liệu chỉ chiếm 14,3% số doanh nghiệp và rất lỏng lẻo, gần như không có các liên kết chính thức nào.

Đa số hộ nuôi tôm ở ĐBSCL còn lẻ loi, ít liên kết với doanh nghiệp chế biến.

Mối liên kết giữa hợp tác xã và tổ hợp tác với doanh nghiệp chế biến để xây dựng chuỗi sản xuất - tiêu thụ tôm đã được đặt ra từ nhiều năm, cũng còn hạn chế. Khảo sát của ICAFIS ở tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu và Sóc Trăng: chỉ có 10,7% số hợp tác xã và tổ hợp tác liên kết với doanh nghiệp chế biến để tiêu thụ sản phẩm cho thành viên. Còn chủ yếu liên kết hiện nay giữa hợp tác xã và tổ hợp tác với các tác nhân bên ngoài là để cung cấp giống tôm, thức ăn cho tôm, thuốc thú y.

Thực trạng các hợp tác xã và tổ hợp tác cũng còn nhiều yếu kém. Trình độ cán bộ quản lý rất thấp: trình độ đại học và cao đẳng với ban lãnh đạo chỉ có 3%; với ban kiểm soát và kế toán không có người nào. Trong lúc, trình độ cấp 1 và 2 là chủ yếu, với ban lãnh đạo là 67,1%, ban kiểm soát 95,8%.

Vốn bình quân của mỗi hợp tác xã và tổ hợp tác chỉ có 121 triệu đồng, quá ít ỏi so với nhu cầu hàng trăm triệu đồng chỉ mới tính tiền thức ăn cho 1ha nuôi tôm bán công nghiệp. Đa số các hợp tác xã và tổ hợp tác lại không có quy định về quản lý hành chính, quản lý tài chính, điều hành hoạt động và sử dụng tài sản; hàng năm chỉ 7,1% làm báo cáo thuế nộp cơ quan thuế.  

Đến nuôi tôm nhiều rủi ro

Người nuôi tôm đang bị hạn chế cả kỹ thuật lẫn quản lý sản xuất, lại thiếu liên kết tiêu thụ sản phẩm với doanh nghiệp chế biến nên đối diện nhiều rủi ro. Tiến sỹ Lê Thanh Lựu, Giám đốc ICAFIS, cho biết rủi ro lớn nhất với người nuôi tôm hiện nay là dịch bệnh. Năm 2014, cả nước bị dịch bệnh làm thiệt hại gần 60.000 ha, chủ yếu là bệnh đốm trắng và hoại tử gan, hay còn gọi là bệnh EMS (hội chứng tôm chết sớm).

Sang năm 2015 và những tháng đầu năm 2016, tiếp tục đối mặt với bệnh bào tử trùng (tôm chậm lớn). Người nuôi lại đang phải sử dụng tôm giống kém chất lượng. Nghiên cứu của ICAFIS trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, cho thấy phần lớn người dân nuôi tôm quy mô nhỏ mua giống ở những nguồn không rõ nguồn gốc hoặc chưa qua kiểm dịch. Bên cạnh, biến đối khí hậu diễn ra nhanh hơn dự kiến cũng gây tác động không nhỏ tới ngành tôm.

Trong lúc, thị trường tiêu thụ có nhiều biến động. Năm 2013 và 2014 được đánh giá là sự tăng mạnh của ngành tôm, giá trị xuất khẩu tăng từ 2.107 triệu USD vọt lên 3.953 triệu USD năm 2014. Tuy nhiên sang năm 2015, xuất khẩu tôm không chỉ giảm 1.023 triệu USD mà thị trường còn bị thu hẹp tới hơn 1/3 (tôm Việt Nam xuất sang 92 thị trường, giảm so với 150 thị trường của năm 2014. Các thị trường chính đều giảm mạnh: Mỹ giảm 35,4%, EU giảm 18%, Nhật Bản giảm 22,8%, Trung Quốc giảm 17%…). Năm 2016, có sự phục hồi, xuất khẩu tôm đạt kim ngạch hơn 3.150 triệu USD, tăng 6,7% so với năm 2015. Những thị trường hàng đầu là Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc đều tăng. Tuy nhiên, nuôi tôm vẫn nhiều rủi ro. Giá bán biến động bất thường, có thời điểm trong năm 2015 giá tôm tại Sóc Trăng giảm mạnh (tôm thẻ loại 100 con/kg chỉ 80.000 đồng/kg, tôm sú loại 40 con/kg giá chỉ 140.000 đồng/kg…) khiến nông dân lỗ nặng. Ước tính có khoảng 80% - 90% hộ nuôi từ hòa đến lỗ trong năm 2015 và đầu năm 2016. Chi phí vật tư đầu vào trong nuôi tôm còn cao, đặc biệt là giá thức ăn chiếm tới 60% chi phí đầu tư. Chi phí sản xuất tôm ở Việt Nam cao hơn so với Thái Lan khoảng 12-15%, với Ấn Độ khoảng 15-20%, tùy thời điểm.  

Nhu cầu hợp tác liên kết chuỗi

Tiến sỹ Lê Thanh Lựu cho biết, khoảng 80% hợp tác xã và tổ hợp tác đã có định hướng thay đổi tổ chức trong thời gian tới, tập trung vào mở rộng quy mô và củng cố ban quản lý. Các tổ chức mong muốn được hỗ trợ để phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh. “Mô hình hợp tác xã là thực sự cần thiết vì có tư cách pháp nhân, để tổ chức liên kết với các đơn vị cung ứng đầu vào sản xuất cũng như người cung cấp các dịch vụ sản xuất. Vì vậy, chúng tôi đề xuất 2 mô hình hợp tác xã và tổ hợp tác cùng tồn tại trong hợp tác, liên kết sản xuất và tiêu thụ tôm”, Tiến sỹ Lựu nói.

Theo đó, tổ hợp tác có chức năng chính là hợp tác về kỹ thuật nuôi tôm, để hình thành vùng sản xuất tập trung, trong phạm vi 1 ấp hoặc khu vực sản xuất. Có thể mở rộng dịch vụ nạo vét ao, tiêu thoát nước, thú y, tổ chức môi giới để cung ứng vật tư đầu vào, tìm kiếm thị trường, liên kết với các doanh nghiệp hoặc cơ sở thu mua để tiêu thụ sản phẩm, các dịch vụ tín dụng nội bộ.

Còn hợp tác xã hoạt động trong phạm vi 1 ấp hoặc liên ấp. Chức năng hoạt động chính: tổ chức sản xuất trên cơ sở hợp tác về kỹ thuật nuôi tôm để hình thành vùng sản xuất tập trung, áp dụng chung 1 quy trình kỹ thuật sản xuất, tổ chức sản xuất theo tiêu chuẩn chất lượng (GAP, ASC, BAP…). Bên cạnh, thực hiện các liên kết về kinh tế với các tác nhân bên ngoài nhờ có tư cách pháp nhân.

Để hợp tác xã và tổ hợp tác thực hiện được chức năng, rất cần hỗ trợ từ nhà nước. Đó là, đào tạo cán bộ quản lý, các mô hình sản xuất và đầu bờ, tập huấn kỹ thuật nuôi tôm đạt tiêu chuẩn chất lượng cao, đặc biệt là khuyến khích doanh nghiệp chế biến tham gia đầu tư, mở rộng liên kết sản xuất. Bên cạnh, hỗ trợ mua bảo hiểm nuôi tôm, tín dụng ưu đãi chuỗi liên kết sản xuất - tiêu thụ tôm có chứng nhận quốc tế.

Khảo sát của ICAFIS, tháng 9/2016, số hợp tác xã nuôi trồng thủy sản ở tỉnh Cà Mau là 78, tỉnh Bạc Liêu 18, tỉnh Sóc Trăng 21; còn tổ hợp tác nuôi trồng thủy sản ở tỉnh Bạc Liêu 188, tỉnh Sóc Trăng 33, còn tỉnh Cà Mau khoảng 1.000. Tính chung cả hợp tác xã và tổ hợp tác nuôi trồng thủy sản ở 3 tỉnh: có 39,3% liên kết với tác nhân bên ngoài cung cấp giống chất lượng cho các thành viên, còn liên kết cung cấp vật tư đầu vào là 35,7% và thấp nhất là chỉ có vỏn vẻn 10,7% liên kết tiêu thụ sản phẩm.

NGỌC DUYÊN -  NongNghiep.vn

Share: 

Tin tức khác