Cơ hội TPP: Thủy sản & Chăn nuôi

Đàm phán Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) là một đàm phán thương mại tự do (FTA) nhiều bên, với mục tiêu thiết lập một khu vực thương mại tự do chung cho các nước thành viên. Bắt đầu từ cuối 2009, tới nay TPP đã trải qua 19 Vòng đàm phán chính thức, cùng rất nhiều các phiên đàm phán giữa kỳ. Đối với ViệtNam, đàm phán TPP hiện đang là một trong những đàm phán FTA quan trọng nhất. Lý do chủ yếu là vì trong TPP có Hoa Kỳ - thị trường XK hàng đầu của Việt Nam.

Những quy tắc TPP đề ra được đánh giá vượt quá khả năng đáp ứng của nền kinh tế Việt Nam hiện nay rất nhiều. Đầu tiên phải kể đến quy tắc xuất xứ của hàng hóa, một trong những lĩnh vực mà bấy lâu nay Việt Nam vẫn “mắc kẹt” do các đối tác TPP rất đề cao hàm lượng nội địa trong sản phẩm. bài viết tập hợp một số dự báo cho ngành thủy sản & chăn nuôi của Việt Nam khi tham gia và TPP.

Ngành thủy sản:

Đối với thị trường Hoa Kỳ, phần lớn các dòng thuế quan hiện đang áp dụng đối với các sản phẩm thủy sản nhập khẩu đã tương đối thấp nên TPP không chắc sẽ giúp làm cho thuế quan vào quốc gia này tốt hơn
Tác động trực tiếp của TPP đối với ngành thủy sản Việt Nam được nhận định là đến từ các biện pháp thuế quan (thuế ưu đãi đối với thủy sản Việt Nam nhập khẩu vào các quốc gia thành viên TPP cũng như thuế ưu đãi cho thủy sản các quốc gia đối tác TPP nhập khẩu vào Việt Nam) và các biện pháp tại biên giới có liên quan đến việc nhập khẩu (các biện pháp phòng vệ thương mại, hàng rào kỹ thuật, biện pháp vệ sinh dịch tễ…).

Ở các khía cạnh gián tiếp, TPP cũng sẽ có tác động nhất định đến ngành thủy sản. Ví dụ, các cam kết bảo hộ nhà đầu tư nước ngoài trong Chương về Đầu tư của TPP có thể ảnh hưởng đến cạnh tranh giữa doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực thủy sản. Những nội dung của Chương về Doanh nghiệp nhà nước có thể tác động trực tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp có vốn Nhà nước trong ngành. Các quy định của Chương về Mua sắm công có thể là cơ hội tốt để doanh nghiệp thủy sản Việt Nam tham gia trực tiếp vào các gói thầu cung cấp nguyên liệu cho các bếp ăn sử dụng ngân sách công của các quốc gia TPP. Còn các tiêu chuẩn cao trong các Chương về Lao động, môi trường lại là thách thức lớn đặt ra đối với việc cải thiện mô hình và chu trình sản xuất trong ngành thủy sản…

Tuy nhiên, ở góc độ này, không chỉ thủy sản Việt Nam mà tất cả các ngành cũng sẽ được hưởng lợi hoặc bị ảnh hưởng tương tự. Vì vậy, những nội dung tiếp theo chỉ tập trung vào các tác động riêng của TPP đối với ngành thủy sản Việt Nam.

Ưu đãi thuế quan trong TPP – ngành thủy sản có thực sự được hưởng lợi?

Từ góc độ xuất khẩu, về lý thuyết chung, TPP sẽ cho phép ngành thủy sản Việt Nam có thể tiếp cận với thuế quan ưu đãi (0%) khi xuất khẩu vào các quốc gia thành viên TPP, đặc biệt là Hoa Kỳ và Nhật Bản – hai thị trường xuất khẩu chủ lực chiếm đến khoảng 35% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2012 của ngành thủy sản Việt Nam.

Mặc dù vậy, trên thực tế lợi thế này không hẳn lớn. Ví dụ, đối với thị trường Hoa Kỳ, phần lớn các dòng thuế quan hiện đang áp dụng đối với các sản phẩm thủy sản nhập khẩu đã tương đối thấp (thuế quan trung bình là 0,3% đối với các loại thủy sản sống; 4,7% đối với thủy sản chế biến), do đó TPP không chắc sẽ giúp làm cho thuế quan vào quốc gia này tốt hơn bao nhiêu. Tương tự với tình hình ở Peru, Canada (nơi thuế quan MFN hiện đã xấp xỉ 0%) hoặc Malaysia, Singapore, Australia… (nơi thuế quan đã bị loại bỏ theo FTA trong ASEAN và ASEAN +).

Trong khi đó, thuế quan đối với ngành thủy sản Việt Nam nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản vẫn còn tương đối ít cho dù Việt Nam đã có ký kết FTA với quốc gia này (trung bình chiếm khoảng 3,5% với thủy sản sống và 7,3% đối với thủy sản chế biến), vì vậy TPP sẽ là cơ hội để thủy sản Việt Nam có thêm lợi thế cạnh tranh về giá khi xuất khẩu sang thị trường này. Do đó, nhìn từ lợi ích xuất khẩu. TPP sẽ chỉ mang lại lợi thế thuế quan cho các sản phẩm thủy sản nhất định hiện đang phải chịu thuế suất cao ở các quốc gia TPP mà thôi.

Từ chiều nhập khẩu, việc ký kết và thực hiện TPP đồng nghĩa với việc các loại thuế quan áp dụng cho thủy sản nhập khẩu vào Việt Nam từ các quốc gia TPP sẽ bị loại bỏ phần lớn. Với các mức thuế suất MFN hiện Việt Nam đang áp dụng tương đối cao (trung bình lên đến 15% đối với thủy sản sống và 30% đối với thủy sản chế biến), việc thủy sản nhập khẩu từ các nước TPP vào Việt Nam không còn phải chịu mức thuế này chắc chắn sẽ tạo ra các áp lực cạnh tranh lớn đối với các doanh nghiệp thủy sản kinh doanh nội địa trước hàng hóa nhập khẩu của nước ngoài.

Đối với các doanh nghiệp thủy sản xuất khẩu sử dụng nguyên liệu nhập khẩu, TPP không mang lại thay đổi lớn bởi nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu đàng nào cũng được hoàn thuế, cho nên thuế nhập khẩu có giảm hay không cũng không đáng quan tâm. Tất nhiên, nếu xét một cách chi li, doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu từ các nước TPP sẽ không phải làm thủ tục hoàn thuế, cũng không bị đọng vốn nếu hiện đang phải nộp thuế nhập khẩu, và đây cũng có thể xem là một lợi ích, tuy rằng không lớn.
Như vậy, nếu xét theo góc độ nhập khẩu, TPP không mang lại ưu thế lớn về thuế quan cho doanh nghiệp ngành thủy sản xuất khẩu nhưng lại đưa đến các thách thức không hề nhỏ đối với doanh nghiệp thủy sản kinh doanh nội địa.
10-TPP
Các hàng rào tại biên giới – TPP có phải là cơ hội để giảm bớt?

Có lẽ các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản hiểu rõ hơn ai hết rằng, trong xuất khẩu, thuế quan chỉ là một phần – đôi khi là phần rất nhỏ của một câu chuyện dài. Phần còn lại nằm ở các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm SPS, ở các hàng rào kỹ thuật TBT (yêu cầu về bao gói, ghi nhãn, vận chuyển….) hoặc ở các biện pháp phòng vệ thương mại (chống bán phá giá, chống trợ cấp…).

Thời gian qua, đâu đó đã có những tín hiệu vui rằng dường như đàm phán TPP đã khiến cho Hoa Kỳ có những biểu hiện nhượng bộ rất tích cực trong các vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp đối với thủy sản Việt Nam gần đây. Đã có những hy vọng rằng thủy sản Việt Nam có thể quẳng gánh lo phòng vệ thương mại cũng như rào cản SPS, TBT ở thị trường Hoa Kỳ khi TPP hoàn thành đàm phán và đi vào thực thi. Tuy vậy, nếu nhìn sâu hơn vào TPP và thực tế hiện tại, có lẽ những người lạc quan quá sẽ phải thất vọng, bởi vì:

1.  Từ góc độ kỹ thuật, dường như đàm phán TPP hoàn toàn không tác động đến kết quả các vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp ở Hoa Kỳ ít nhất là đối với thủy sản Việt Nam trong thời gian này. Thực tế con tôm Việt Nam thoát cáo buộc trợ cấp chẳng phải vì Bộ Thương mại Hoa Kỳ nương tay khi tính toán mức độ trợ cấp của Việt Nam, mà bởi Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ cho rằng sản xuất nội địa Hoa Kỳ không bị thiệt hại và vì thế không chỉ có Việt Nam, những quốc gia khác cùng bị kiện dù không phải là thành viên đàm phán TPP cũng thoát.

Tương tự, con tôm Việt Nam nhận thuế 0% trong kỳ rà soát thuế chống bán phá giá lần 7 (POR7) ở nước này chủ yếu là do những nỗ lực chứng minh của doanh nghiệp cũng như sức ép từ kết quả thành công trong vụ kiện WTO trước đó hơn là một sự ưu ái nào. Bởi nếu có ưu ái nào đó, vì TPP chẳng hạn, thì kết quả của rà soát POR8 và POR9 đối với cá tra, cá basa đã không có biên độ cao như vậy.

2. Từ những nguồn thông tin đáng tin cậy cho biết, đàm phán TPP không có nội dung nào hạn chế quyền của các quốc gia nhập khẩu trong việc sử dụng các công cụ này. TPP có Chương về SPS, TBT về phòng vệ thương mại, nhưng nội dung của các Chương này rất ngắn và chủ yếu nhấn mạnh yếu tố hợp tác trong việc xử lý nhanh các khiếu nại nếu có.

Nói cách khác, sẽ không có chuyện TPP sẽ khiến các nhà sản xuất nội địa nước nhập khẩu bớt đi kiện con cá, con tôm Việt Nam. Cũng không có chuyện cơ quan điều tra bớt sử dụng các phương pháp tính toán bất lợi cho Việt Nam. Càng không có khả năng nào để những yêu cầu, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm được hạ thấp hơn hoặc ít ra cũng đừng phát sinh nhiều thêm.

3. Có một xu thế đã được nhận thấy trên thế giới rằng ở đâu các rào cản thuế quan bị loại bỏ ở đó các biện pháp bảo hộ trá hình bị lạm dụng nhiều hơn. Như thế, hàng rào này đổ thì hàng rào khác lại dựng lên, với mục tiêu bảo vệ bằng một cách khác cho sản xuất trong nước. Nếu xu thế này là đúng với hậu TPP, có lẽ doanh nghiệp thủy sản sẽ phải rất chú ý. Từ đó, có lẽ cần hiểu sự im lặng của các doanh nghiệp ngành thủy sản trước đàm phán TPP là một biểu hiện khác của sự bình thản.

Bình thản rằng TPP đối với ngành thủy sản sẽ chẳng phải là một cú hích lớn được hồ hởi đón nhận, nhưng cũng không phải là một cú sốc nặng khiến cho phải vật vã đớn đau. Và bình thản rằng, xét đến cùng, trong một tương lai có TPP, để tồn tại và phát triển, doanh nghiệp thủy sản Việt Nam vẫn sẽ phải chủ động, sẵn sàng và dũng cảm cho những cuộc cạnh tranh sòng phẳng và quyết liệt.

Nông nghiệp chăn nuôi

Thách thức lớn hơn cả là ngành chăn nuôi với tình thế “sống còn” khi gia nhập TPP ở cả ba phân ngành chính là lợn, gà và bò. Chăn nuôi gà Việt Nam không có khả năng cạnh tranh, rất dễ bị xóa sổ. Một doanh nghiệp (DN) chăn nuôi gà cho biết, chi phí sản xuất 1kg thịt gà (hơi) hiện khoảng 60.000 đồng. Giá bán nguyên con ra thị trường 70.000 đồng/kg, giá bán đã qua giết mổ 110.000 đồng/kg. Trong khi gà nhập khẩu chỉ có giá dưới 100.000 đồng/kg, DN trong nước khó cạnh tranh.

Đối với chăn nuôi lợn, dù Việt Nam có ưu thế bởi người dân có thói quen sử dụng thịt tươi. Tuy nhiên, xu hướng tiêu dùng sẽ nhanh chóng thay đổi và người dân chuyển dần sang việc sử dụng thịt đông lạnh. Với chăn nuôi bò, hiện thịt bò nhập khẩu từ Mỹ, Australia hay từ các nước ASEAN đã có giá rất cạnh tranh do quy mô chăn nuôi lớn, trong khi chăn nuôi bò tại Việt Nam quy mô nhỏ, giống chất lượng kém, do đó, rất khó để nói về khả năng cạnh tranh thắng lợi của ngành chăn nuôi bò Việt Nam.

Khi Việt Nam gia nhập WTO, chúng ta cũng chỉ ra hàng loạt cơ hội sẽ đến cho DN Việt Nam. Song, tổng kết 5 năm gia nhập WTO, có ý kiến cho rằng, Việt Nam rất giỏi trong việc... “biến cơ hội thành thách thức”. Với TPP, rất có thể điều đó sẽ tái diễn nếu các DN, đặc biệt là các DNNN, vẫn thờ ơ với chiến lược kinh doanh, vẫn “yên tâm” với một nền quản trị lạc hậu. Chẳng hạn, việc áp đặt quy tắc xuất xứ được coi là một thách thức nhưng điều đó lại buộc các DN phải tăng đầu tư vào khâu “thượng nguồn” như sợi, dệt, nhuộm, vải, tạo tiền đề phát triển bền vững. Không có chiến lược đầu tư cho sản xuất từ khâu đầu, chắc chắn cơ hội từ TPP sẽ không đến với DN dệt may Việt Nam.

Tương tự, sản xuất nông nghiệp của Việt Nam phải đối mặt với quy định về bảo hộ sáng chế, do đó chi phí sản xuất sẽ cao, trong khi hiện nay người nông dân vẫn đang phải gánh chi phí rất lớn cho thuốc bảo vệ thực vật, thú y... Ngoài ra, việc sử dụng những sản phẩm có bảo hộ sở hữu trí tuệ trong TPP cũng khắt khe hơn, chưa kể theo đề xuất sử dụng chỉ dẫn địa lý của TPP, ai có thương hiệu đăng ký trước sẽ được bảo hộ trước. Các DN trong ngành nông nghiệp không thể thờ ơ với việc bảo hộ sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa...

Với TPP, ở tất cả các ngành hàng của Việt Nam đều gặp ít nhiều thách thức. Và chỉ khi vượt qua được những thách thức ấy, các DN Việt Nam mới thực sự nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Năng lực cạnh tranh thấp

Thực tế cho thấy, năng lực cạnh tranh của Việt Nam từ năng lực cạnh tranh quốc gia, ngành hàng và của doanh nghiệp cuối cùng là năng lực cạnh tranh của các sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ đều đang ở mức thấp.

Về vấn đề này, ông Trần Hữu Huỳnh, Chủ tịch Ủy ban tư vấn chính sách thương mại quốc tế VCCI đã chia sẻ: Trong thị trường, giá cũng là điều quan trọng, tuy nhiên, đi kèm với đó là chất lượng, thương hiệu. Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế hội nhập ở mức độ sâu rộng thì vấn đề về chất lượng là vấn đề hàng đầu.

“Giá là một yếu tố quan trọng nhưng không phải là cái duy nhất” – Ông Huỳnh nhấn mạnh.
Cùng quan điểm, PGS.TS Trần Đình Thiêm, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng, các DN vẫn chưa có tầm nhìn chiến lược để tăng tính cạnh tranh.

Ngoài ra, tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm cũng là thách thức. Vấn đề này tồn tại chủ yếu ở các mặt hàng nông nghiệp. Ví dụ như khi xuất khẩu tôm thì dư lượng kháng sinh trong tôm rất lớn, hoặc đối với lúa gạo, thì lại có tỉ lệ thuốc bảo vệ thực vật cao.

Đáng quan ngại hơn là về nguyên liệu đầu vào. Cả một thời kỳ phát triển, chúng ta làm không cân đối chuyện này khi phần lớn nguyên liệu đầu vào lại đang nhập khẩu, chủ yếu từ Trung Quốc. Nếu không tạo ra được một cơ sở đầu vào mới, hoặc là chính mình tạo ra nguyên liệu, thì chúng ta không được hương lợi từ TPP.

Nguồn: Trung tâm WTO

Share: 

Tin tức khác